Lao màng não
Lao màng não là bệnh như thế nào
Lao màng não và hệ thần kinh trung ương là một bệnh ở hệ thần kinh, gây ra bởi vi khuẩn lao (Mycobacterium tuberculosis). Lao màng não thường được cho là thể lao thứ phát, tức là sau lao sơ nhiễm. Đường gây bệnh là do vi khuẩn lao sơ nhiễm (thường là lao phổi) qua đường máu và bạch huyết đến gây bệnh ở màng não và não. Ngoài ra cũng có nhiều trường hợp lao ngoài phổi khác như lao thận, lao sinh dục, lao tinh hoàn, lao xương, lao tim, lao màng bụng, màng phổi, lao hạch...
Ảnh minh họa.
Dấu hiệu nhận biết lao màng não
Bệnh khởi đầu với những triệu chứng không đặc hiệu: nhức đầu, chóng mặt, ù tai; có người bị co giật khu trú, liệt, nói sảng, buồn bã... thường dễ bị nhầm với bệnh cảm mạo. Người lớn bị lao màng não và hệ thần kinh trung ương thường xuất hiện với các triệu chứng viêm màng não điển hình như sốt, nhức đầu và cứng cổ cùng với những thiếu sót thần kinh cục bộ, thay đổi hành vi và thay đổi nhận thức.
Tuy nhiên, các dấu hiệu viêm màng não điển hình ngày càng đầy đủ và rõ như: sốt cao, kéo dài, tăng lên về chiều tối; nhức đầu khu trú hoặc lan tỏa, liên tục hoặc thành từng cơn, âm ỉ hoặc dữ dội và tăng lên khi có những kích thích tiếng động hoặc ánh sáng (nhức đầu kết hợp với tăng trương lực cơ làm bệnh nhân hay nằm ở tư thế co người, quay mặt vào trong tối); nôn (khi tăng áp lực nội sọ) tự nhiên, nôn vọt không liên quan tới bữa ăn; rối loạn tiêu hoá như táo bón hoặc tiêu chảy; đau bụng, đau các khớp, đau ở cột sống phối hợp với đau ở các chi; rối loạn cơ thắt gây bí tiểu, tiểu tiện hoặc đại tiểu tiện không tự chủ; liệt các dây thần kinh sọ, liệt các chi, các cơn động kinh cục bộ hoặc toàn thể, các biểu hiện rối loạn tâm thần. Các biểu hiện rối loạn ý thức có thể có với mức từ nhẹ đến nặng (hôn mê).
Trẻ em bị lao màng não thường có sốt, cứng cổ, co giật và các triệu chứng ở bụng như buồn nôn và nôn. Nhức đầu ít xảy ra hơn so với người lớn. Tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh, các triệu chứng thần kinh dao động từ thờ ơ, kích động đến hôn mê. Biểu hiện lâm sàng của u lao não hoặc áp xe não do lao phụ thuộc phần lớn vào vị trí của chúng và bệnh nhân thường xuất hiện với đau đầu, co giật, phù gai thị hoặc có dấu hiệu khác của tăng áp lực nội sọ. Tốc độ phát triển triệu chứng thường được đo bằng tuần đến nhiều tháng với khối u lao não. Biểu hiện của áp xe lao não cấp tính nhanh hơn (1 tuần đến 3 tháng) so với khối u lao nhưng chậm hơn so với sự tấn công của áp xe não mủ (thường kết hợp với sốt, nhức đầu và những thiếu sót thần kinh khu trú).
Biến chứng lao màng não
Dù chỉ chiếm 5% tổng số các ca lao, nhưng lao màng não là thể lao ngoài phổi có tiên lượng nặng, tỉ lệ tử vong còn cao và thường để lại di chứng nặng.
Nếu nhập viện muộn (khi đã hôn mê sâu), tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân lao màng não lên đến 70-80%. Những người còn sống có thể gặp những biến chứng nặng nề như sống đời sống thực vật, động kinh, mù mắt, liệt dây thần kinh 3 hoặc 4, liệt nửa người hoặc hai chi dưới, thiểu năng trí tuệ, thay đổi tính tình, béo phì, vô kinh ở nữ giới, đái tháo nhạt,... Trong quá trình bệnh lao màng não phát triển có thể gây ra não úng thủy hoặc u não là những bệnh cảnh có tiên lượng xấu.
Cận lâm sàng và điều trị lao màng não
- Cận lâm sàng:
Phương pháp xác định hiệu quả nhất trong xác định lao là cấy vi khuẩn, mẫu bệnh phẩm lấy để xét nghiệm là dịch não tủy. Ngoài ra khi kiểm tra các bác sỹ sẽ kiểm tra cả Xquang phổi để xác định tổn thương lao sơ nhiễm, và chụp cắt lớp vi tính não bộ để xác định có các khối u lao ở não hay không. Xét nghiệm Mantoux, xét nghiệm công thức máu, soi đáy mắt ...cũng là một số những xét nghiệm được chỉ định để xác định bệnh.
- Điều trị:
Mặc dù xét nghiệm nuôi cấy dịch não tủy tìm vi khuẩn lao là "tiêu chuẩn vàng" trong xác định bệnh lao màng não, tuy nhiên xét nghiệm này cho kết quả sau 2 tháng và có đến 50% trường hợp bị âm tính giả (có bệnh nhưng xét nghiệm không tìm ra vi khuẩn). Chính vì thế, khi thấy cơ thể có những triệu chứng nhức đầu, chóng mặt, ù tai kéo dài, bệnh nhân nên đến bệnh viện để kiểm tra sức khỏe. Đặc biệt, những người đã mắc các thể lao khác (như lao phổi, lao hạch, lao tiết niệu, lao xương...); những người sức đề kháng suy giảm do suy dinh dưỡng, sau nhiễm virut, không tiêm BCG, nhiễm HIV, đái tháo đường,... cần tuân thủ tốt các hướng dẫn điều trị, có chế độ dinh dưỡng đầy đủ, không làm việc quá sức để vi khuẩn lao không có cơ hội tấn công lên não.
Lao màng não là một thể lao nặng, diễn biến thường cấp tính, khó tiên lượng, với nhiều rối loạn nặng về thần kinh, nên có dấu hiệu lao màng não, bệnh nhân cần phải được theo dõi và điều trị tích cực tại bệnh viện. Điều trị lao màng não phải phối hợp kháng sinh chống lao liều cao ngay từ đầu, đủ liều, kéo dài, đủ phác đồ (phác đồ điều trị lao) kết hợp với việc theo dõi tác dụng phụ của thuốc. Đồng thời điều trị nâng cao sức đề kháng toàn thân, kết hợp theo dõi chống biến chứng, di chứng...
Thời gian điều trị tấn công thông thường trung bình 2-4 tháng tại bệnh viện cho đến khi dịch não tủy ổn định, gần trở về bình thường. Nếu được phát hiện sớm và không bị kháng thuốc thì thời gian điều trị cũng phải kéo dài 4 tháng thì dịch não tủy mới trở lại bình thường. Nhưng nếu trong quá trình điều trị mà có bất kỳ biểu hiện nào bất thường hoặc có dấu hiệu nặng lên thì phải thay thế phác đồ điều trị thích hợp.Cũng như các bệnh lao khác, lao màng lão nếu được phát hiện sớm, dùng các thuốc điều trị lao đặc hiệu và các biện pháp hồi sức tích cực, việc chẩn đoán và điều trị bệnh ngày càng đạt được kết quả khả quan, tỉ lệ tử vong và di chứng do bệnh đã giảm đi đáng kể. Các thủ thuật phẫu thuật ở những bệnh nhân bị lao màng não chủ yếu hướng đến việc điều trị não úng thủy hoặc u lao
Kết luận
Bệnh lao màng não là một bệnh ít gặp, tuy nhiên có tỷ lệ tử vong cao và đặc biệt có thể để lại các biến chứng để lại thường nặng nề.Do đó cần tiêm phòng lao đầy đủ theo chương trình tiêm chủng quốc gia để hạn chế tối đa tình trạng mắc lao sơ nhiễm, từ đó sẽ hạn chế được tình trạng lao màng não và các thể lao ngoài phổi khác. Với người bệnh đã bị lao sơ nhiễm cần chú ý các dấu hiệu trên để phát hiện kịp thời và điều trị đúng thì mới có tỷ lệ thành công cao và ít để lại biến chứng nghiêm trọng.